Trước thời kỳ có siêu âm chẩn đoán thì việc phát hiện bệnh u nang ống mật chủ (dãn đường mật bẩm sinh) trước mổ quả thật là một thách thức đối với những bác sĩ lâm sàng Ngoại khoa cũng như Nhi khoa.
Tôi xin tường thuật lại cho các bạn về trường hợp bệnh u nang ống mật chủ đầu tiên mà tôi đã phát hiện và điều trị tại Khoa Ngoại Bệnh viện Trung ương Huế vào năm 1984.
Hôm đó tua trực Ngoại nhận về một bé gái khoảng 5 tuổi từ khoa Nhi sau 10 ngày mà vẫn chưa xác định được bệnh gì ngoài một bệnh cảnh tắc mật từng đợt. Trẻ đã được hội chẩn và chuyển ngoại với chẩn đoán tắc mật chưa rõ nguyên nhân.
Thăm khám lúc vào trẻ thể trạng trung bình so với những trẻ khác cùng lứa tuổi, da và kết mạc mắt hơi vàng nhẹ, bụng mềm, gan lách không lớn, không có tuần hoàn bàng hệ. Đặc biệt khi sờ vùng hạ sườn phải thì thấy có một khối u mềm không đau tương ứng vị trí của túi mật. Quan sát khi đi tiểu thấy nước tiểu màu vàng đậm và phân bạc màu, có lẫn nhiều kết thể phân trắng. Chưa có xét nghiệm cận lâm sàng nào đặc thù ngoài các xét nghiệm kết luận một tắc mật thông thường. Tôi rất phân vân trước bệnh nhi nầy, lục lại trong ký ức của mình về những ngày còn học ở Viện Nhi Hà nội thì chợt có lóe sáng một ý nghĩ về một căn bệnh gây tắc mật bẩm sinh mà tôi đã gặp một lần ở Hà nội. Bệnh nầy đã làm cho một đồng nghiệp của tôi ở Viện Nhi lúc đó là Bác Sĩ Nguyễn Thanh Liêm (nay là Giáo sư đầu ngành Ngoại Nhi Việt nam) rất quan tâm và đã trình bày dưới dạng một báo cáo khoa học cho các BS trong khoa nghe (có cả các BS người Thụy điển tham dự), đó là bệnh u nang ống mật chủ.
Tôi đã tự đối chiếu những điều mình đã gặp với bệnh nhi nầy thì thấy chúng có khá nhiều điểm trùng hợp, do đó tôi đã không ngần ngại chẩn đoán tên bệnh trước các đồng nghiệp Ngoai khoa cũng như Nhi Khoa. Không ai tin tôi cả nhưng cũng không ai chối cãi vì thật ra lúc đó trong đầu mọi người cũng chưa có ai nghĩ ra điều gì. Bệnh nhi đã được mổ cấp cứu trì hoãn với chẩn đoán tắc mật chưa rõ nguyên nhân. Trước mổ tôi có bàn với BS Dương Đăng Hỷ, phẫu thuật viên chính của cas mổ, theo ý tôi là nên nối mật-ruột kiểu Roux-en-Y nếu gặp u nang ống mật chủ nhưng BS Hỷ đã không đồng ý vì theo ý BS nếu nối Roux-en-Y thì phải cắt ruột do đó sẽ có nhiều nguy cơ nên đã chọn phương pháp nối mật-ruột kiểu omega theo Brown, tôi không đồng ý lắm nhưng mà làm sao được vì mình đâu phải phẫu thuật viên chính (!). Cuộc mổ đã diễn ra tốt đẹp, tôi tuy rất thỏa mãn vì mình đã chẩn đoán đúng trước mổ nhưng vô cùng ấm ức với cách nối mật-ruột đã nói trên.
Bệnh nhi đã ra viện tốt, nhưng về nhà cháu đã vẫn thỉnh thoảng bị từng đợt nhiễm trùng đường mật phải điều trị làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt. Vì gia đình bệnh nhi cũng thuộc loại khá giả nên cuối cùng họ đem cháu vào Sài gòn nhập viện điều trị ở Bệnh viện Nhi đồng 2. Tại đây cháu đã được Giáo Sư Trần Đông A điều trị và mổ lại, tuy nhiên tôi cũng không biết GS đã xử lý như thế nào sau đó. Chỉ biết rằng sau mổ thì tình trạng nhiễm trùng đường mật có cải thiện hơn trước.
LUẬN BÀN
U nang ống mật chủ thật ra là một bệnh lý bẩm sinh phổ biến ở các nước Đông Á, nhất là ở Nhật (trên y văn là nước có tỷ lệ dị dạng bẩm sinh đường mật cao nhất thế giới). Riêng ở Bệnh viện Trung ương Huế thì chỉ trong 3 năm từ 2003 đến 2006 số lượng bệnh nhi vào mổ cũng đủ số liệu cho luận án của TS Phạm Anh Vũ (giảng viên Bộ môn Ngoại). Như vậy phải chăng hiện nay bệnh phổ biến hơn trước kia?
Cũng không hẳn như vậy nhưng có một điều mà mọi người đều thừa nhận là từ khi có siêu âm chẩn đoán thì nhiều bệnh nhân mắc căn bệnh này được phát hiện, nhập viện và phẫu thuật từ rất sớm ngay cả khi chưa có một biểu hiện lâm sàng nào.
Theo kinh điển thì phần lớn bệnh nhi u nang ống mật chủ được phát hiện trước 10 tuổi, trong đó tam chứng cổ điển gồm vàng da, đau bụng và khối u ổ bụng là dấu hiệu lâm sàng chính cho chẩn đoán, tuy nhiên theo những nghiên cứu sâu hơn thì người ta thấy u nang ống mật chủ thật ra chỉ là một thể thường gặp nhất của bệnh dãn đường mật bẩm sinh mà thôi (congenital biliary dilatation - BM Ngoại). Theo phân loại của Todani thì dãn đường mật bẩm sinh có tất cả 5 thể (1977):
- Thể 1: Dãn đơn thuần ống mật chủ (u nang ống mật chủ).
- Thể 2: Túi thừa bên của ống mật chủ.
- Thể 3: Túi sa ống mật chủ .
- Thể 4: Dãn nhiều nang của đường mật trong và ngoài gan.
- Thể 5: Dãn đơn thuần đường mật trong gan (bệnh Caroli).
Nhờ có siêu âm chẩn đoán nên ngày nay việc chẩn đoán bênh u nang ống mật chủ không còn quá vất vả và khó khăn như trường hợp đã xảy ra đối với bệnh nhi nầy. Không những thế thì quan điểm về điều trị cũng đã khác trước rất nhiều.
Ở bệnh nhi trên đã được điều trị theo hướng dẫn lưu nội bảo tồn phần dãn của nang. Loại điều trị nầy bao gồm:
- Nối nang với tá tràng bên bên.
- Nối nang với hỗng tràng theo Roux-en-Y hoặc Omega - Brown.
- Nối nang với dạ dày.
Ngày nay các phẫu thuật nầy đã bị từ bỏ là vì hai lý do chính: thứ nhất là gây nhiễm trùng đường mật ngược dòng tái diễn ảnh đến sinh hoạt của bệnh nhân và có thể đưa đến tình trạng xơ gan ứ mật về sau, thứ hai là biến chứng ung thư hóa thành nang để lại.
Do đó các Phẫu thuật viên Ngoại Nhi hiện nay đều chủ trương cắt bỏ phần dãn của ống mật chủ càng nhiều càng tốt, tái lập lưu thông mật-ruột (biliary derivation - BM Ngoại) theo kiểu Roux-en-Y hoặc trên một quai ruột biệt lập (như trong luận án của TS Phạm Anh Vũ, giảng viên BM Ngoại). Phẫu thuật nầy có thể thực hiện bằng mổ mở hoặc bằng đường nội soi ổ phúc mạc (laparoscopy).
Trên đây chỉ sơ bộ giới thiệu trường hợp u nang ống mật chủ đầu tiên tại Khoa Ngoại Bệnh viện Trung ương Huế trước kia. Cho đến nay thì bệnh càng ngày càng được hiểu toàn diện hơn không những trong tên gọi, trong chẩn đoán và cả trong cách điều trị nữa.
---------------------------------------------------------
Để hiểu sâu hơn, hãy tìm các tài liệu có liên quan theo các từ khóa (key word) như dãn đường mật bẩm sinh, u nang ống mật chủ, congenital biliary dilatation, biliary derivation…hoặc LA của TS Phạm Anh Vũ tại Trung tâm thông tin - thư viện Trường ĐHYD Huế.
|