1. Mục tiêu: đánh giá tác động lâu dài (ít nhất 3 tháng sau điều trị) của sóng xung kích trong tán sỏi ngoài cơ thể lên nhu mô thận bằng chụp cắt lớp phát xạ đơn photon (SPECT: Single Photon Emission Computed Tomography) với dược chất phóng xạ
99mTechnetium-DMSA.
2. Đối tượng nghiên cứu: 45 bệnh nhân (30 nam, 75%) bị sỏi thận đài dưới được điều trị bằng tán sỏi ngoài cơ thể từ tháng 5/2005 đến tháng 4/2007
với nguồn phát sóng xung điện từ (electromagnetic). Chụp thận đồ đồng vị phóng xạ bằng máy SPECT với 99mTc-DMSA 6 tháng sau khi kết thúc liệu trình điều trị (tối đa 5 lần tán). Trên kết quả xạ hình thận, thận có chức năng dưới 44% được xem là bất thường (giảm). Đánh giá hình thái nhu mô. Chức năng thận và sẹo nhu mô được phân chia thành 4 nhóm: tùy theo chức năng của thận tính toán được ở trên (Nhóm 1: Thận bình thường về chức năng (>45%) và nhu mô không có sẹo, Nhóm 2: Mức độ nhẹ, chức năng thận trên 40%, Nhóm 3: Mức độ trung bình, chức năng thận từ 20-40%, Nhóm 4: Mức độ nặng, chức năng thận dưới 20%). So sánh giữa hai thận về các chỉ số trên.
3. Kết quả: Tỷ lệ sạch sỏi chiếm 62,73%. Kết quả xạ hình thận: 82,3% (37 trường hợp) chức năng tương đối của thận được tán sỏi bình thường, 17,7% (8 trường hợp) có giảm mức độ nhẹ. Về hình thái nhu mô thận trên xạ hình thận, không có trường hợp nào trong số 37 trường hợp chức năng thận được tán sỏi không thay đổi có biểu hiện vùng kém hoặc không tập trung.
4. Kết luận: Tán sỏi ngoài cơ thể là phương tiện điều trị ít xâm nhập, an toàn. Tuy nhiên sóng xung kích có tác động lên chức năng thận và để lại sẹo trên nhu mô thận. Chụp xạ hình thận với 99mTc-DMSA cho phép đánh giá được chức năng thận và hình thái nhu mô thận sau tán sỏi ngoài cơ thể. Tán sỏi nhiều lần là yếu tố làm ảnh giảm chức năng thận và để lại tổn thương tại chỗ cho nhu mô.
1. Objective: Because of reports of renal parenchymal damage caused by shock wave, this study was designed to assess the effects of ESWL after treatment with 99m-Technetium dimercapto-succinic acid (DMSA) renal scan by SPECT. 2. Materials and Methods: A total of 45 patients (30 males) underwent ESWL treatment for lower pole stones. Preoperative evaluation imaging included plain abdominal radiography, excretory urogram and renal sonography. The function of the two kidneys (the kidney bearing stone and the controlateral) before the treatment was normal. The treatment to the stone was made with the electromagnetic lithotriptor at 3000 shocks 12 KV for each session (5 sessions maximum). DMSA renal scan was performed at least 6 months after treatment. A kidney with a split function of 44% or less was classified as abnormal. A focal reduction or absence of uptake in 1 or more areas in the kidney was considered abnormal and indicated renal damage. The severity of cortical damage on DMSA renal scan was classified and scored as the cortical damage score, including 1-normal with no cortical damage, 2-mild with focal cortical damage, 3-moderate with more general damage and greater kidney length but some residual areas of normal cortex and 4-severe mixing with global cortical damage with or without a small segment of normal cortex. 3. Results: ESWL was performed in 1 session for 16patients, 2 sessions for 9, 3 sessions for 7, 4 sessions for 7 and 5 sessions for 6 delivering 3,000 shock waves at 12 KV per session. Treatment was successful in achieving stone-free status in 62,73% of the cases. On DMSA renal scan no acquired parenchymal scar was identified at least 6 months after ESWL treatment in 82,3% of the cases, mild parenchymal scar in 17,7% for the patients receiving more sessions of treatment (over 4). 4. Conclusions: Renal parenchymal trauma associated with ESWL appears to cause long-term lesions identifiable by DMSA renal scan, especially when more sessions of treatment are applied.